Bây giờ chúng ta muốn xem, quan điểm, đức tin của họ đã hình thành và được củng cố vững chắc bằng cách nào. Ví dụ, ta thử thuyết phục một người nguyên thủy, một người hoang dã hoặc một đứa trẻ con bằng những lập luận lôgic, lúc đó ta sẽ nhận thấy rằng những kiểu cách thuyết phục như vậy mang lại kết quả rất ít như thế nào. Người ta không lãnh đạo dân dựa theo tính khí nhất thời của họ mà dựa theo tính cách của họ.
Ai muốn được đám đông ngưỡng mộ, người đó lúc nào cũng phải nên giữ một khoảng cách đối với họ. Nhìn chung bản thân các giám đốc nhà hát đều rất không chắc chắn về sự thành công của vở kịch khi người ta đưa cho họ xem kịch bản, bởi để có thể đánh giá được, họ phải tự biến thành một đám đông. Nó chuẩn bị mảnh đất, trên đó người ta thấy những ý tưởng bất chợt nhú lên, sức mạnh và tác động của chúng làm cho ta ngạc nhiên, nhưng đó chỉ là có vẻ như bất chợt.
Mức độ to lớn của một nền văn hóa không thể để phụ thuộc vào quyền bỏ phiếu của các phần tử bên dưới một tập thể hoàn toàn không mang một ý nghĩa gì ngoài con số. Nhưng ngay từ phút đầu tiên của lần tiếp xúc đầu tiên, không có những lời khuôn sáo, không có những cử chỉ, không có sự đe dọa, chỉ với một cái nhìn đầu tiên của một con người vĩ đại trong tương lai, tất cả họ dường như lập tức bị thuần phục. Ở trong nó là sự tóm lược một cách sống động những hoài bão vô thức khác nhau và niềm hy vọng chúng sẽ trở thành hiện thực.
Điều thực tế là một lớp các cử tri xuất thân phần lớn từ công nhân hoặc nông dân thường không lựa chọn những người của họ làm đại diện đã được giải thích là do những người đồng chí ngang hàng với họ không hề có uy lực. Song những ví dụ như vậy chỉ hợp với những lãnh đạo lớn và số này rất hiếm, đến nỗi lịch sử có thể đếm được con số của họ một cách dễ dàng. Ở đây người ta chỉ lo làm sao nói năng cho phù hợp với thời cuộc và địa điểm, và làm sao để thể hiện được sự cống hiến của họ giành cho đảng phái chứ không phải cho tổ quốc.
Bản thân ông ta cũng chẳng còn nghe thấy mình nói gì, và ông ta im lặng, sau đó ông ta cố gắng tiếp tục nói chừng nào còn có thể, bởi vì ông ta sợ, nếu im lặng lúc này rất có nguy cơ ở đâu đó sẽ vang lên lời đề nghị “đủ rồi, xuống thôi”. Bất kỳ sự phản kháng nào cũng phải tan biến trước sự rõ ràng của những điều ông ta trình bày. Nó không phụ thuộc vào tất cả các loại chức danh, tất cả các kiểu uy tín.
Sự học tập đối với anh ta là đọc thuộc lòng và vâng lời. Chương 3: Những lãnh đạo của đám đông và phương tiện thuyết phục của họ Đám đông không bao giờ khao khát sự thật.
Bởi vì chúng ta bình thường không thể vận dụng cái bản năng tàn phá này vào đồng loại, cho nên chúng ta đã tìm sự thỏa mãn nó ở súc vật. Trong một đám hỗn độn, những đặc điểm tâm lý của đám đông đã thể hiện ở mức độ cao nhất. Ông ta tự tán dương niềm tin mà ông ta tâm đắc nhằm truyền đạt nó vào tâm hồn người nghe.
Trong chương tiếp theo chúng ta sẽ thấy các động lực này đã được sử dụng như thế nào để có thể phát huy hết tác dụng của chúng. Sự thất bại bị phát hiện đã làm cho uy lực mất đi nhanh chóng. Những hình ảnh giả tạo là các sản phẩm của sự vô thức, là những cái đã dẫn dắt chúng ta, và chúng có lẽ là những cái cần thiết phải có.
Đấy, hãy xem các quan niệm của đám đông đã biến đổi ra sao trong vòng 70 năm! “La perfide Albion” [khái niệm chỉ nền ngoại giao xảo trá của nước Anh hay nước Anh xảo trá] hồi đầu thế kỷ này do ảnh hưởng bởi di sản của Napoleon để lại đã trở thành kẻ đồng minh của nước Pháp; Nước Nga, là nước hai lần có chiến tranh với chúng ta và đã rất vui mừng trước số phận không may của chúng ta lần cuối đây, bỗng nhiên lại được coi là bạn hữu. Những nền tảng xã hội và tín ngưỡng vững chắc mà họ được kế thừa không hề bị suy chuyển, khi người ta phủ lên chúng một lớp quan điểm châu u xa lạ. Lúc đó trời quang mây tạnh.
Cũng may cho sự tiến bộ và văn hóa, bởi sau khi những phát minh khoa học và kỹ thuật được hoàn tất, cái siêu quyền lực của đám đông mới được sinh ra. Theo quan điểm tâm lý học, khái niệm “Đám đông” mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. Chương 2: Những động lực trực tiếp của các quan điểm của đám đông